bài kinh cầu siêu cho người mới mất
Lưu ý khi đọc văn khấn cúng cơm người mới mất. 1. Ý nghĩa bài cúng cơm hàng ngày. Bài cúng cơm hàng ngày là một phong tục lâu đời của người Việt Nam. Với ý nghĩa thể hiện lòng thành kính, tưởng nhớ của con cháu đến người đã khuất trong gia đình. Nhiều người cho
Cầu siêu cho người đã mất. Đặc biệt, cầu siêu trong 49 ngày thật sự có ý nghĩa chỉ đối với những người đã mất chưa quyết là được tái sanh về cảnh giới nào, hoặc đang trong trạng thái mê mê tỉnh tỉnh của thân trung ấm. Việc cúng cầu siêu như vậy có tác dụng
Một câu nguyện tuy ngắn gọn, nhưng ý nghĩa vô cùng rộng lớn. Nếu thân nhân quan tâm, vì người quá cố, nhớ hằng ngày, hàng tuần thất mà thành tâm cầu nguyện bài Vãng Sanh trên và đồng thời niệm Phật, làm các việc phước thiện, rồi hồi hướng cho các vong linh, ắt
Bài văn khấn trong lễ cúng 100 ngày cho người mới mất đúng chuẩn nhất Trong lễ cúng 100 ngày cho người mới mất, để thể hiện lòng thương nhớ và cầu cho linh hồn người mất sớm được siêu thoát, gia chủ có thể tham khảo và sử dụng bài văn khấn sau đây:
Ngoài ra, bài kinh cầu siêu người chết còn có mục đích giúp vong linh người mất sám hội, ngẫm lại tội lỗi của mình, thấu hiểu và chấp nhận buông bỏ đau khổ, rời xa quả báo, thoát khỏi cảnh giới tối tăm đọa đày đau khổ. Việc này sẽ giúp cho thần thức vong linh
Văn Khấn Cầu Siêu Cho Người Mới Mất; Văn Khấn Cầu Siêu Cho Cha Mẹ; Video liên quan; Cầu Siêu Tại Nhà Là Gì. Cầu siêu tách nghĩa ra được hiểu là cầu trong cầu nguyện, siêu trong siêu thoát; nghĩa là cầu nguyện để ông bà cha mẹ ở nơi cửu huyền được siêu thoát về cõi
thotzamuri1986. Trước đây, mỗi khi cần cầu siêu cho người mới mất, người thân trong gia đình cần phải lên chùa và nhờ các sư thầy soạn một bài tụng kinh và tiến hành nghi thức. Hiện nay, kinh cầu siêu cho người mới mất đã có bản mẫu sẵn nên các gia đình có thể tự làm mà không cần đến sự hỗ trợ của các tăng ni Phật tử, sư thầy. Cầu siêu là gì? Cầu siêu là những lời thỉnh cầu của người thân của người vừa mất với mong muốn người đã khuất có thể nhanh chóng giác ngộ, siêu thoát, quy về cửa Phật hoặc đầu thai sang một kiếp khác. Một nghi thức cầu siêu Khi làm các nghi lễ cầu siêu, linh hồn của người mất sẽ không còn bấn loạn hay vấn vương nơi trần thế mà sẽ được khai tâm mở nhãn, nhanh chóng giải thoát. Hiện nay, để tụng kinh cầu siêu cho người mới mất, người thân nên chọn kinh A Di Đà, kinh Địa Tạng hoặc kinh Vu Lan. Khi một người vừa mới mất, linh hồn của họ thường có xu hướng vương vấn nơi trần thế do tình thương với người còn sống hoặc có nhiều việc chưa thực hiện được khi còn sống. Do đó, việc tụng kinh cầu siêu sẽ giúp linh hồn họ thanh thản hơn, dễ giải thoát hơn. Nguồn gốc của nghi thức cầu siêu Nghi thức cầu siêu được bắt nguồn từ tấm gương hiếu thảo của Đức Mục Kiền Liên Bồ Tát. Theo ghi chép, do mẹ của Ngài là Thanh Đề phạm phải những tội lỗi “tày đình” từ kiếp này qua kiếp khác nên bị đày xuống 18 tầng Địa Ngục. Phận làm con, vì muốn báo hiếu cha mẹ nên Ngày đã sử dụng thần thông để soi khắp trời đất, tìm nơi cha mẹ vãng sanh. Nhờ tấm lòng của mình, Ngài đã được các chư vị giúp đỡ, tìm thấy mẹ đang chịu cảnh đọa đày bởi các hình phạt nơi âm ty. Cầu siêu được cho là xuất phát từ tích Mục Liên – Thanh Đề Không thể cầm được nước mắt, Ngài đã đến thỉnh Đức Phật giúp đỡ và nhận được lời khuyên nên về niệm kinh, giúp mẹ trả hết những nghiệp kiếp đang gánh chịu thì mới có thể đầu thai chuyển kiếp. Sau ba tháng tu tập ba phần giới, cuối cùng Đức Mục Kiền Liên cũng cứu mẹ thoát khỏi Địa Ngục. Đây cũng chính là căn nguyên để người đời tin rằng, việc cầu siêu có ý nghĩa giúp người mất nhanh chóng tìm thấy lối đi, sớm đầu thai chuyển kiếp. Tụng kinh cầu siêu cho người mới mất hàng ngày không chỉ giúp người vừa qua đời sớm được an nghỉ, linh hồn được đầu thai chuyển kiếp mà còn là nghi lễ giúp người thân trong gia đình tưởng nhớ, dành thời gian tiễn đưa người chết đến chặng đường cuối cùng. Bên cạnh đó, kinh cầu siêu còn giúp tâm của những người còn sống được thanh thản, an yên hơn. Tụng kinh cầu siêu để giúp người mất ra đi thanh thản hơn Những đối tượng nên được tụng kinh cầu siêu bao gồm Cửu Huyền Thất Tổ. Thai Nhi. Vong Kinh. Oan linh trái chủ. Con vật. Nghi thức tụng kinh cầu siêu cho người mới mất Dù hiện nay đã có các bài kinh cầu siêu cho người mới mất trên các phương tiện truyền thông đại chúng nhưng không phải cứ đọc là có tác dụng mà chúng ta cần phải thực hiện đúng nghi thức. Theo đó, nghi lễ cầu siêu được thực hiện như sau Dâng hương Thắp 3 nén nhang thơm, sau đó gia chủ quỳ trên chiếu và vái 3 lần rồi cắm nhang vào bát. Đọc kinh Tiếp theo, người thân trong gia đình đọc các bài kinh theo thứ tự như sau mỗi khi kết thúc một nhịp cần lạy một cái. Tán Phật, Quán tưởng. Bài đảnh lễ. Bài trì tụng. Tán lư hương 3 lần. Sau khi đã đọc các bài kinh này, người thân có thể tụng kinh niệm chú đại bi và phát huyện trì kinh. Nếu không có kiến thức về cách chuẩn bị nghi lễ cầu siêu hay thứ tự các bài kinh, gia chủ nên nhờ các vị thiền sư, ni cô tại chùa hướng dẫn cụ thể. Sau khi đã trải qua 49 ngày, nếu có điều kiện, gia chủ có thể đọc hàng ngày đến ngày thứ 100 hoặc đến giỗ đầu. Nội dung bài kinh cầu siêu cho người mới mất hàng ngày chuẩn nhất Niệm hương lễ bái Sau khi thắp đèn và đốt nhang trầm xong, gia chủ hãy đứng ngay ngắn, chắp tay ngang ngực mật niệm Tịnh pháp – giới chơn – ngôn Án lam xóa ha. 3 lần Tịnh tam – nghiệp chơn – ngôn Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ truật độ hám. 3 lần Dâng hương Thắp 3 cây nhang và quỳ ngay thẳng, cầm nhang đưa lên trán niệm lớn bài cúng hương Nguyện thử diệu hương vân, Biến mãn thập phương giới, Cúng dường nhứt-thế Phật, Tôn pháp chư Bồ tát, Vô biên Thanh văn chúng, Cập nhứt thế Thánh-Hiền, Duyên khởi quang minh đài, Xứng tánh tác Phật-sự, Phổ huân chư chúng-sanh, Giai phát Bồ-ề tâm, Viễn-ly chư vọng-nghiệp, Viên-thành vô-thượng đạo. Xá 3 xá rồi đọc bài kỳ nguyện Kỳ nguyện Tư thời đệ-tử chúng đẳng phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, nguyện thập-phương thường-trú Tam-bảo, Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, tiếp dẫn đạo-sư A-Di-à Phật, từ-bi tiếp độ hương linh….. pháp-danh….. phiền-não đoạn-diệt, nghiệp-chướng tiêu trừ, tốc xả mê đồ, siêu sanh Tịnh-độ, ngưỡng kỳ chư Phật từ-bi phóng quang tiếp độ hương-linh vãng sanh Cực-lạc quốc. Tán Phật Pháp vương vô-thượng tôn Tam-giới vô luân thất Thiên nhơn chi ạo-sư Tứ-sanh chi từ-phụ Ư nhứt niệm quy-y Năng diệt tam-kỳ nghiệp Xưng dương nhược tán-thán Ức kiếp mạc năng tận. ứng dậy cầm hướng lên lư rồi chắp tay đứng thẳng và niệm lớn bài Quán tưởng Quán tưởng Năng lễ, sở lễ tánh không tịch, Cảm ứng đạo-giao nan tư nghì, Ngã thử đạo tràng như ế-châu, Thập phương chư Phật ảnh hiện trung, Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, ầu diện tiếp túc quy mạng lễ. – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tận hư-không, biến pháp-giới, quá, hiện, vị-lai thập-phương chư Phật, Tôn-Pháp, Hiền-Thánh Tăng, Thường-trú Tam-Bảo. 1 lạy – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Ta-bà Giáo-chủ Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, ương-lai hạ sanh Di-Lặc Tôn Phật, ại-trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-tát, ại-hạnh Phổ-Hiền Bồ-tát, Hộ-Pháp Chư-tôn Bồ-tát, Linh-sơn hội thượng Phật Bồ-tát. 1 lạy – Chí tâm đảnh lễ Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới ại-từ ại-bi A-Di-à Phật, ại bi Quán-Thế-Âm Bồ-tát, ại-Thế-Chí Bồ-tát, ại-nguyện ịa-Tạng-Vương Bồ-tát, Thanh-tịnh ại-hải-chúng Bồ-tát. 1 lạy ứng ngay, vô chuông mõ và đồng tụng Tán lư hương Lư hương sạ nhiệt, Pháp giới mông huân, Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân, Thành ý phương ân, Chư Phật hiện toàn thân. Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-tát ma-ha-tát. 3 lần Chú đại bi Nam-mô ại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. 3 lần Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại-bi tâm đà-la-ni. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, Bồ-đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tỏa. Nam-mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam-mô na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà già, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ-đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na a ra sâm Phật ra xá-lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ-đề dạ bồ-đề dạ, bồ-đà dạ, bồ-đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, ta bà ha. Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. 3 lần Nam-mô Bổn-sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. 3 lần Khai kinh kệ Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như-Lai chơn thiệt nghĩa. Kinh A Di Đà Nam-mô liên-trì hải-hội phật bồ-tát. 3 lần Phật thuyết a-di-đà kinh Như thị ngã văn Nhất thời Phật tại Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp-cô-độc viên, dự đại Tỳ-kheo tăng, thiên nhị bá ngũ thập nhơn câu, giai thị đại A-La-hán, chúng sở tri thức Trưởng-lão Xá-Lợi-Phất, Ma-ha Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Li-bà-đa, Châu-lợi bàn-đà-già, Nan-đà, A-Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-lô-phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-Câu-la, A-nâu-lâu-đà, như thị đẳng chư đại đệ tử, tinh chư Bồ-tát ma-ha-tát. Văn-thù Sư-lợi pháp-vương-tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càng à-ha-đề Bồ-tát, Thường-tinh-tấn Bồ-tát, dữ như thị đẳng, chư đại Bồ-tát; cập Thích-đề-hoàn nhơn đẳng, vô-lượng chư thiên, đại-chúng câu. Nhĩ thời Phật cáo Trưởng lão Xá-Lợi-Phất “Tùng thị Tây-phương quá thập vạn ức Phật-độ, hữu thế-giới danh viết Cực-lạc kỳ độ hữu Phật hiệu A-Di-à, kim hiện tại thuyết-pháp”. Xá-Lợi-Phất! Bỉ độ hà cố danh vi Cực-lạc? Kỳ quốc chúng-sanh vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực-lạc. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, thất trùng lan thuẫn, thất trùng la-võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu, thị cố bỉ quốc danh vi Cực-lạc. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công-đức thủy, sung mãn kỳ trung, trì để thuần dĩ kim sa bố địa, Tứ biên giai đạo, kim ngân, lưu-ly, pha-lê hiệp thành; thượng hữu, lâu các, diệc dĩ kim, ngân, lưu-ly, pha-lê, xa-cừ, xích-châu, mã-não nhi nghiêm sức chi. Trì chung liên-hoa, đại như xa luân, thanh sắc thanh quang, huỳnh sắc huỳnh quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch quang, vi diệu hương khiết. Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang nghiêm. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc-độ thường tác thiên nhạc, huỳnh kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên mạn-đà-la hoa, kỳ độ chúng-sanh thường dĩ thanh đán, các dĩ y-kích thạnh chúng diệu hoa cúng dường tha phương thập vạn ức Phật, tức dĩ thực thời hạn đáo bổn quốc, phạn thực kinh hành. Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc độ thành tựu như thị công đức trang-nghiêm. Phục thứ Xá-Lợi-Phất! Bỉ-quốc thường hữu chủng chủng kỳ diệu, tạp sắc chi điểu Bạch-hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng-mạng chi điểu, thị chư chúng điểu, trú dạ lục thời, xuất hòa nhã âm, kỳ âm diễn xướng ngũ-căn, ngũ-lực, thất-bồ-đề phần, bát-thánh-đạo phần, như thị đẳng pháp, kỳ độ chúng-sanh văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá-Lợi-Phất! Nhữ vật vị thử điểu, thiệt thị tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc-độ vô tam ác đạo. Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc-độ thượng vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thiệt, thị chư chúng điểu, giai thị A-Di-à Phật dục linh pháp-âm tuyên lưu biến hóa sở tác. Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc-độ vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bá thiên chủng nhạc đồng thời cu tác, văn thị âm giả, tự nhiên giai sanh niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm. Xá-Lợi-Phất! Kỳ Phật quốc-độ, thành tựu, như thị công-đức trang-nghiêm. Xá-Lợi-Phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật hà cố hiệu A-Di-à? Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quang-minh vô-lượng, chiếu thập phương quốc, vô sở chướng ngại, thị cố hiệu vi A-Di-à. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật thọ mạng, cập kỳ nhơn dân, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cố danh A-Di-à. Xá-Lợi-Phất! A-Di-à Phật thành Phật dĩ lai, ư kim thập kiếp. Hựu Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật hữu vô-lượng vô-biên Thinh-văn đệ-tử, giai A-la-hán, phi thị toán số chi sở năng tri; chư Bồ-tát chúng diệc phục như thị. Xá-Lợi-Phất! Bỉ Phật quốc độ thành-tựu như thị công-đức trang-nghiêm. Hựu Xá-Lợi-Phất! Cực-lạc quốc-độ chúng-sanh sanh giả, giai thị a-bệ-bạt-trí, kỳ trung đa hữu nhứt sanh bổ xứ, kỳ số thậm đa phi thị toán số, sở năng tri chi, đản khả dĩ vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ thuyết. Xá-Lợi-Phất! Chúng-sanh văn giả, ưng đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. Sở dĩ giả hà? ắc dữ như thị chư thượng thiện-nhơn câu hội nhứt xứ. Xá-Lợi-Phất! Bất khả dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhơn-duyên, đắc sanh bỉ quốc. Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nư nhơn, văn thuyết A-Di-à Phật, chấp trì danh-hiệu, nhược nhứt nhựt, nhược nhị nhựt, nhược tam nhựt, nhược tứ nhựt, nhược ngũ nhựt, nhược lục nhựt, nhược thất nhựt, nhứt tâm bất loạn. Kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A-Di-à Phật dữ chư Thánh-chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn chung thời, tâm bất điên-đảo, tức đắc vãng-sanh A-Di-à Phật Cực-lạc quốc-độ. Xá-Lợi-Phất! Ngã kiến thị lợi, cố thuyết thử ngôn, nhược hữu chúng-sanh văn thị thuyết giả, ưng đương phát nguyện, sanh bỉ quốc độ. Xá-Lợi-Phất! Như ngã kim giả, tán thán A-Di-à Phật bất khả tư nghị công-đức chi lợi. ông phương diệc hữu A-súc-bệ Phật, Tu-di-tướng Phật, ại-tu-di Phật, Tu-di-quang Phật, Diệu-âm Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Nam phương thế-giới hữu Nhựt-Nguyệt-ăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tu-Di-ăng Phật, Vô-Lượng Tinh Tấn Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Tây-Phương thế-giới hữu Vô-Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, ại-Quang-Phật, ại-Minh Phật, Bảo-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Bắc phương thế-giới, hữu Diệm-Kiên Phật, Tối-Thắng-AÂm Phật, Nan-Thơ Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng Minh Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ-niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Hạ phương thế-giới, hữu Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, ạt-Ma Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! Thượng phương thế-giới, hữu Phạm-AÂm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, ại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc-Bảo-Hoa-Nghiêm thân Phật, Ta-La-Thọ-Vương Phật, Bảo-Hoa-ức Phật, Kiến-Nhứt-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật; như thị đẳng hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng trường thiệt tướng, biến phú tam-thiên đại-thiên thế-giới, thuyết thành thiệt ngôn “Nhữ đẳng chúng-sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư-nghị công-đức nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”. Xá-Lợi-Phất! “Ư nhữ ý vân hà? Hà cố danh vi Nhứt thiết chư Phật sở hộ niệm kinh”? Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn văn thị kinh thọ trì giả, cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, giai vi nhứt-thiết chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Thị cố Xá-Lợi-Phất! Nhữ đẳng giai đương tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết. Xá-Lợi-Phất! Nhược hữu nhơn dĩ phát nguyện, kim phát-nguyện, đương phát nguyện, dục sanh A-Di-à Phật quốc giả, thị chư nhơn đẳng giai đắc bất thối chuyển ư a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, ư bỉ quốc độ nhược dĩ sanh, nhược kim sanh, nhược đương sanh. Thị cố Xá-Lợi-Phất! Chư thiện-nam tử, thiện-nữ nhơn, nhược hữu tín giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ. Xá-Lợi-Phất! Như ngã kim giả, xưng tán chư Phật bất khả tư nghị công-đức, bỉ chư Phật đẳng, diệc xưng tán ngã bất khả tư nghị công-đức nhi tác thị ngôn “Thích-Ca Mâu-Ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi sự, năng ư Ta-bà quốc-độ ngũ-trược ác thế; kiếp-trược, kiến-trược, phiền-não trược, chúng-sanh trược, mạng-trược trung đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị chư chúng-sanh, thuyết thị nhứt thiết thế-gian nan tín chi pháp. Xá-Lợi-Phất! ương tri ngã ư ngũ-trược ác thế, hành thử nan sự, đắc a-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, vị nhứt thiết thế-gian thuyết thử nan tín chi pháp, thị vi thậm nan. Phật thuyết thử kinh dĩ, Xá-Lợi-Phất cập chư Tỳ-kheo, nhứt thiết thế-gian, Thiên, Nhơn, A-tu-la đẳng, văn Phật sở thuyết, hoan-hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ. Phật thuyết A-Di-à kinh. A Di Đà Phật tán Tây-phương Giáo-Chủ Tịnh-độ năng Nhơn, Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh, Phát nguyện thệ hoằng thâm. Thượng-phẩm thượng-sanh, ồng phó Bửu-Liên thành. Chí tâm đảnh lễ. 1 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Lượng-Quang Như-Lai. 2 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Biên-Quang Như-Lai. 3 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Ngại-Quang Như-Lai. 4 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-ối-Quang Như-Lai. 5 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Diệm-Vương-Quang Như-Lai. 6 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Thanh-Tịnh-Quang Như-Lai. 7 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Hoan-Hỉ-Quang Như-Lai. 8 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Trí-Huệ-Quang Như-Lai. 9 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Nan-Tư-Quang Như-Lai. 10 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Bất-oạn-Quang Như-Lai. 11 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Vô-Xưng-Quang Như-Lai. 12 – Nam-mô An-Dưỡng quốc, Cực-lạc giới Di-à Hải-hội, Siêu-Nhật-Nguyệt-Quang Như-Lai. Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba-la mật-đa thời, chiếu kiến ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá-Lợi-Tử ! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức, diệc phục như thị. Xá-Lợi-Tử ! Thị chư Pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý-thức-giới, vô vô-minh diệc, vô vô-minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão-tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố, Bồ-đề tát-đỏa y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, tâm vô quái-ngại; vô quái-ngại cố, vô hữu khủng-bố, viễn ly điên-đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam-thế chư Phật, y Bát-nhã-ba-la mật-đa cố, đắc A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề. Cố tri Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thị đại-thần chú, thị đại minh chú, thị vô-thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hư. Cố thuyết Bát-nhã-ba-la-mật-đa chú, tức thuyết chú viết Yết-đế yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, Bồ-đề tát bà ha. 3 lần Vãng sanh quyết định chơn ngôn Nam-mô a di đa bà dạ, a tha dà đa dạ, a địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ, A di rị đa tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa, Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta bà ha. Tán Phật A-Di-à Phật thân kim sắc Tướng hảo quang-minh vô đẳng-luân Bạch hào uyển-chuyển ngũ tu-di Cám mục trừng thanh tứ đại hải. Quang trung hóa Phật vô số ức, Hóa Bồ-tát chúng diệt vô-biên Tứ thập bát nguyện độ chúng-sanh Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn. Nam-mô Tây-phương Cực-lạc thế-giới đại-từ đại-bi A-Di-à Phật. Nam-mô A-Di-à Phật. Niệm nhiều ít tùy ý Nam-mô ại-bi Quán-thế-âm Bồ-tát. 3 lần Nam-mô ại-Thế-Chí Bồ-tát. 3 lần Nam-mô ại-Tạng Vương Bồ-tát. 3 lần Nam-mô Thanh-tịnh ại-Hải chúng Bồ-tát. 3 lần Sám thập phương Thập phương Tam-thế Phật A-Di-à đệ nhứt, Cửu phẩm độ chúng-sanh Oai-đức vô cùng cực, Ngã kim đại quy-y. Sám-hối tam nghiệp tội, Phàm hữu chư phước thiện, Chí tâm dụng hồi-hướng. Nguyện đồng niệm Phật nhơn, Cảm ứng tùy thời hiện, Lâm chung Tây-phương cảnh, Phân-minh tại mục tiền, Kiến văn giai tinh tấn, ồng sanh Cực-lạc quốc, Kiến Phật liễu sanh-tử, Như Phật-độ nhứt-thiết, Vô-biên phiền-não đoạn, Vô-lượng pháp môn tu; Thệ nguyện độ chúng-sanh, Tổng giai thành Phật đạo; Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng, Hư-không hữu tận, ngã nguyện vô-cùng, Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí. Mười đại nguyện Quỳ đọc ệ-tử chúng đẳng Tùy-thuận tu tập Phổ-Hiền Bồ-tát Thập chủng đại nguyện Nhứt giả lễ kính chư Phật, Nhị giả xưng tán Như-Lai, Tam giả quảng tu cúng-dường, Tứ giả sám-hối nghiệp-chướng, Ngũ giả tùy-hỷ công-đức, Lục giả thỉnh chuyển pháp-luân, Thất giả thỉnh Phật trụ thế, Bát giả thường tùy Phật học, Cửu giả hằng thuận chúng-sanh, Thập giả phổ giai hồi-hướng. Hồi hướng Phúng kinh công-đức thù thắng hạnh, Vô biên thắng phước giai hồi-hướng, Phổ nguyện pháp-giới chư chúng-sanh, Tốc vãng vô-lượng-quang Phật sát. Nguyện tiêu tam-chướng trừ phiền-não, Nguyện đắc trí-huệ chơn minh liễu, Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ. Thế thế thường hành Bồ-tát đạo. Nguyện sanh Tây-phương Tịnh-độ trung, Cửu phẩm Liên-hoa vi phụ mẫu, Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh, Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ. Nguyện dĩ thử công-đức, Phổ cập ư nhứt thiết, Ngã đẳng dữ chúng-sanh, Giai cộng thành Phật-đạo. Thượng lai Vị chủ lễ xướng một mình như sau ệ-tử chúng đẳng, cung tựu Phật tiền, phúng tụng ại-thừa kinh chú, cập niệm Phật công đức, chuyên vì kỳ siêu hương linh….. Pháp danh….. tốc xả mê-đồ, siêu sanh Tịnh-độ. Phục nguyện Nhứt thành thượng đạt, vạn tội băng tiêu, nguyện hương linh đắc độ cao-siêu, kỳ gia-quyến hàm triêm lợi-lạc. Phổ nguyện Âm siêu dương thới, pháp giới chúng-sanh, tình dữ vô tình, tề thành Phật đạo. Nam-mô A-Di-à Phật. ồng niệm Tam Quy Y Tự quy-y Phật, đương nguyện chúng-sanh, thể giải đại-đạo, phát vô-thượng tâm. 1 lạy Tự quy-y Pháp, đương nguyện chúng-sanh, thâm nhập kinh-tạng, trí huệ như hải. 1 lạy Tự quy-y Tăng, đương nguyện chúng-sanh, thống-lý đại-chúng, nhứt thiết vô ngại. 1 lạy. Trên đây là bài kinh cầu siêu cho người mất cũng như ý nghĩa của việc làm này. Hi vọng qua bài viết này, bạn đã biết cách thực hiện nghi thức tụng kinh cầu siêu, giúp người thân vừa mới mất có thể ra đi thanh thản và nhẹ lòng hơn. Tham khảo [Văn khấn] Bài cúng cơm cho người mới mất chuẩn nhất Cúng thất tuần là gì? Nghi lễ cúng thất tuần cho người mới mất Lễ Động Quan là gì? Những điều cần biết về Lễ Động Quan Làm sao để biết người mất về nhà? Dấu hiệu nhận biết chính xác
Kiến thức Chủ nhật, 17/02/2022 0812 Có nhiều thành viên trong gia đình khi có đám tang là người thân lớn tuổi hơn mình thì thường rốt bãn khoãn không biết nên tụng kinh gì cho người mới mốt là tốt nhất, lựa chọn quyển kinh nào để tụng mà khiến họ được ra đi thanh than, không có vướng víu hoặc canh cánh khuất mát khi còn sống. Thực tế, hiện nay có rốt nhiều cuốn kinh dùng trong tang lễ, nhưng kinh để đọc cầu siêu thoát cho người chết đúng nghĩa thì không phai ai cũng biết. Bạn nên lựa chọn những quyển kinh cầu siêu giúp người khuất hiểu ra được trên trần gian đã không còn quyến luyến hoặc sự níu kéo nào nừa. giúp họ nhận ra được việc nên buông tay trần thế để tìm đến sự giài thoát cho như vậy họ mới siêu thoát nhanh chóng. Tùy vào người mốt mà có nhiều quyền kinh khác nhau như kinh Địa Tạng hoặc kinh Vu Lan đều chỉ sự báo hiếu, sự hiếu thào của người con đối với cha mẹ. Nên tụng kinh cầu siêu gì cho người mới mất? Việc tụng kinh cầu siêu cho người mới mất không quan trọng về những quyển kinh Phật mà ở tấm lòng người đọc và các thành viên trong tang lễ mong muốn người mất hãy về nơi an nghỉ đừng bàn về chuyện thế sự ở trần gian. Nên đọc bài kinh với tòng giọng, ngôn ngừ như thế nào để giúp họ có thể dễ dàng buông bỏ trần thế, giúp họ từ bỏ sự quyến luyến ở thế gian mà được chuyển đầu thai sang kiếp khác một cách nhanh chóng. Người đọc kinh nên dành những tâm chân thành nhốt khi đang đọc kinh cho người mốt, có như vậy người mốt mới càm nhận và từ bỏ mọi thế sự, khuất mắt ở thế gian mà đầu thai sang kiếp khác.
290,000₫ Đài nghe kinh phật có công suất loa lớn, pin trâu, 2 pin gắn song song, tích hợp thẻ nhớ 8g rất thích hợp nghe đọc kinh a đà phật vì rất lâu mới hết pin. Máy nghe kinh phật có thể nghe liên tục 24/24, rất bền, được nhiều người tin chọn. Mua máy nghe đọc kinh cho người mới mất bao đã gồm thẻ nhớ, pin sạc, cóc sạc đầy đủ. Mua về là sử dụng ngay, không cần quan tâm mua các phụ kiện khác đi kèm. Máy nghe kinh địa tạng giao hàng toàn quốc, thanh toán khi nhận được hàng.
Sở dĩ việc tụng kinh cầu siêu cho người mới mất ngày một phổ biến hơn tại Việt Nam được cho là bắt nguồn từ tấm gương hiếu thảo của Đức Mục Kiền Liên. Ngài vì muốn báo hiếu cha mẹ đã dùng thần thông để soi khắp trời đất tìm ra nơi cha mẹ mình vãng sanh. Nhờ đó, người đã tìm thấy mẹ mình đang phải chịu khổ ở nơi địa ngục. Chứng kiến mẹ ngày một bị đọa đày bởi các hình phạt đau đớn, khó chịu, ngài không cầm được nước mắt đã đến xin thỉnh Phật giúp đỡ. Đức Phật cho lời khuyên ngài nên về tìm cách niệm kinh, giúp mẹ nhanh chóng trả hết những nghiệp kiếp đang gánh chịu mới mong được đầu thai chuyển thế. Cầu siêu là gì?Cầu siêu bắt nguồn từ đâu?Vì sao ngày càng có nhiều người tụng kinh cầu siêu cho người mới mất?Nghi thức cầu siêu cho người mới mấtKinh cầu siêu cho người mới mất Cầu siêu là gì? Cầu Siêu là một phong tục tín ngưỡng phổ biến trong đạo Phật, đặc biệt là ở các nước Đông Á như Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Nó là sự cầu nguyện và cúng dường cho linh hồn người đã khuất, với hy vọng giúp họ sớm siêu thoát khỏi vòng luân hồi và đạt được giải thoát. Cầu Siêu thường được tổ chức vào các dịp lễ tết, ngày giỗ, đám giỗ, hoặc vào các ngày đặc biệt trong lịch Phật để tưởng nhớ và báo hiếu người đã khuất. Trong lễ Cầu Siêu, người cúng thường sử dụng các kinh Phật giáo và cúng dường các món đồ như hoa quả, bánh trái, nước uống để tế trang và cầu nguyện cho linh hồn người đã khuất. Cầu siêu là một nghi thức phổ biến cho người đã khuất Có lẽ việc cầu siêu ngày càng phổ biến hơn ở Việt Nam là do tấm gương hiếu thảo của Đức Mục Kiền Liên. Ngài đã sử dụng thần thông để tìm ra nơi cha mẹ của mình vãng sanh, với mong muốn báo hiếu. Sau khi tìm thấy mẹ mình đang phải chịu khổ ở nơi địa ngục, ngài đã xin Thế Tôn giúp đỡ. Đức Phật đã khuyên ngài nên tìm cách niệm kinh để giúp mẹ nhanh chóng trả hết nghiệp kiếp và được đầu thai chuyển thế, giải thoát khỏi nơi địa ngục đau khổ. Sau khi an cư tịnh độ trong ba tháng và tu tập ba phần giới, Đức Mục Kiền Liên đã cứu mẹ của mình thoát khỏi địa ngục và điều này trở thành nguyên nhân cho sự phổ biến của việc cầu siêu. Người ta tin rằng cầu siêu có tác dụng lớn giúp cho linh hồn người đã khuất tìm thấy lối đi và sớm được chuyển kiếp. Câu chuyện này đã được ghi chép trong kinh Phật và dần dần đã hình thành nên việc cầu siêu, được thể hiện tấm lòng hiếu thảo của con cháu đối với các bậc tiền bối. Vì sao ngày càng có nhiều người tụng kinh cầu siêu cho người mới mất? Việc đọc kinh cầu siêu cho người đã qua đời không chỉ mong muốn họ sớm an nghỉ và được chuyển kiếp một cách an lành mà còn là một nghi thức tốt đẹp để tưởng nhớ và tiễn đưa người thân về cõi vĩnh hằng. Tác dụng của kinh cầu siêu là giúp cho tâm hồn của người sống được an tâm, còn tâm hồn của người đã khuất được an lạc. Đó là lý do tại sao ngày càng có nhiều người lựa chọn tụng kinh cầu siêu cho người đã mất trong vòng 49 ngày đầu sau khi họ qua đời. Thậm chí, nhiều gia đình còn mời các tăng ni về giúp đỡ, với hy vọng người thân sẽ tìm được an bình tại miền cực lạc. Ngày càng nhiều người tụng kinh cầu siêu cho người đã mất Nghi thức cầu siêu cho người mới mất Để tụng kinh cầu siêu cho người đã khuất có tác dụng, cần tuân thủ nghi thức của nhà Phật. Nghi lễ cầu siêu bao gồm các bước sau Cúng hương Thắp ba nén nhang thơm, quỳ trên chiếu, lễ vái ba lần, sau đó đặt nhang vào bát cúng hương. Đọc kinh Từ từ đọc các bài kinh cầu siêu cho người đã khuất, lạy một cái khi kết thúc mỗi nhịp. Theo thứ tự Đọc tán phật, quán tưởng. Đọc bài đảnh lễ. Đọc bài trì tụng. Tán lư hương ba lần. Nên tuân theo đúng thứ tự trong nghi thức cầu siêu để đạt hiệu quả tốt nhất, nếu không biết cách thực hiện, nên hỏi hướng dẫn từ các thiền sư, ni cô tại chùa. Sau khi trải qua 49 ngày, nếu có điều kiện, nên tiếp tục đọc kinh cầu siêu hàng ngày đến 100 ngày hoặc đến ngày giỗ đầu. Ngoài việc đọc kinh cầu siêu, có thể tụng kinh niệm chú đại bi và phát nguyện trì kinh. Khi cầu siêu cho người mất cần phải chú ý các nghi thức Kinh cầu siêu cho người mới mất Bài kinh cầu siêu cho người mới mất thường được đọc trong đám tang hoặc trong các nghi thức cầu siêu tại chùa. NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT Đệ tử tự tại, tịnh độ chân như phật, Làm động đảnh động, giác ngộ trọn đời. Kinh này cầu siêu cho đại danh giá, Linh hồn linh quyết, phù hộ chúng sanh. Kinh này cầu siêu cho Tên đầy đủ của người đã khuất nếu biết Hoặc danh xưng của người đã khuất nếu không biết tên Kinh này cầu siêu để linh hồn người đã khuất được vãng sanh cực lạc, trở thành chư phật tử tại, an vui hạnh phúc và được bảo trợ bởi chư phật, chư bồ tát, các vị đại thánh và các vị đấng linh thiêng khác. Nam mô A Di Đà Phật, xin các vị đại thánh, chư phật tử tại, chư bồ tát và các vị đấng linh thiêng khác phù hộ cho linh hồn người đã khuất vãng sanh cực lạc, được an vui hạnh phúc và bảo vệ mãi mãi.
bài kinh cầu siêu cho người mới mất